Sodium methyl cocoyl taurate
Phân loại:
Thành phần khác
Mô tả:
Sodium Methyl Cocoyl Taurate là gì?
Sodium Methyl Cocoyl Taurate (còn gọi Natri Menthyl Cocoyl Taurate) là hoạt chất được chiết xuất từ trái dừa, công thức RCON (CH3) CH2CH2SO3Na, trong đó RCO - đại diện cho gốc axit dừa.
Sodium Methyl Cocoyl Taurate là chất hoạt động bề mặt, chất tạo bọt được đánh giá an toàn khi sử dụng trong mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân dành cho cả người lớn và em bé.

Đặc biệt, các nhà sản xuất rất ưa chuộng bổ sung Sodium methyl cocoyl taurate vào công thức các sản phẩm sữa rửa mặt nhờ khả năng tạo bọt và ổn định bọt ngay cả trong sự hiện diện của dầu, bã nhờn của chất này. Với ứng dụng rộng rãi của Sodium Methyl Cocoyl Taurate mà hoạt chất này trở thành một trong những loại nguyên liệu được tìm mua nhiều nhất trên thị trường, nhất là trong lĩnh vực sản xuất mỹ phẩm.
Điều chế sản xuất
Sodium Methyl Cocoyl Taurate được điều chế bằng cách phản ứng taurine, N-metyltaurine, hoặc muối ăn mòn với axit béo dừa. Người ta đun nóng axit dừa, dung dịch natri metyl tarat và axit boric đến 200ºC, trong khi khuấy với chất tẩy nitơ dưới bề mặt. Khi nguội quá trình này sẽ cho ra kết quả là một chất rắn như sáp được nghiền thành bột.

Có thêm một phương pháp nữa để điều chế Sodium Methyl Cocoyl Taurate đó là hòa tan taurine trong hỗn hợp nước, rượu isopropyl và natri hydrat. Axit lauric clorua và dung dịch natri hiđrat được khuấy vào dung dịch. Tiếp theo, axit clohydric và dung dịch canxi clorua được thêm vào và khuấy. Chất màu trắng sau đó được lọc và làm khô.
Sodium Methyl Cocoyl Taurate thường được bán dưới dạng hỗn hợp với natri clorua và nước.
Dược động học:
Dược lực học:
Xem thêm
Avena sativa là gì?
Nhiều nghiên cứu cho thấy, avena sativa (hay yến mạch) và bột yến mạch mang lại nhiều lợi ích đối với sức khỏe và làm đẹp, chăm sóc da. Avena sativa có chứa các hợp chất tốt cho cơ thể, bao gồm beta-glucan (5%) là chất làm dịu da, lipid (3-11%) cung cấp dưỡng chất cho hàng rào lipid một lượng lớn axit béo omega-3 và 6, phenolic là chất chống oxy hóa, còn avenanthramides là một tác nhân chống viêm. Ngoài ra, trong avena sativa còn chứa nhiều loại khoáng chất và vitamin, trong đó có vitamin E (dưới dạng α-tocopherol).

Trong công thức mỹ phẩm, các nhà sản xuất bổ sung avena sativa vào bảng thành phần với công dụng mang lại là giúp tẩy tế bào chết, chống oxy hóa và làm mềm da. Những người sở hữu làn da khô, ngứa, dễ bị phát ban hoặc chàm rất thích hợp dùng sản phẩm chứa avena sativa.
Với nhiều tính năng hữu ích nói trên, không ngạc nhiên khi từ lâu avena sativa đã được sử dụng trong các sản phẩm đặc trị như một chất làm dịu da, giảm kích ứng da và ngứa nhẹ do phát ban, chàm hoặc côn trùng cắn.
Điều chế sản xuất avena sativa
Chiết xuất avena sativa được sản xuất thông qua quá trình làm lạnh để tránh mất dưỡng chất. Sau đó, người ta cô đặc thành phần thu được lại rồi hòa tan trong glycerin và nước ở nồng độ 20% (chiết xuất) và 80% (chất pha loãng).
Chromium picolinate là gì?
Chromium là khoáng chất có trong một số loại thực phẩm. Trong cơ thể, cùng với Insulin (do tuyến tụy sản xuất), Chromium picolinate hoạt động với vai trò chuyển hóa carbohydrate. Trong thương mại, các nhà sản xuất đưa Chromium picolinate vào trong những loại dược phẩm để điều trị chứng thiếu crôm, giúp kiểm soát lượng đường trong máu ở bệnh nhân tiểu đường hoặc tiền tiểu đường, giảm cholesterol xấu, đồng thời đóng vai trò như thực phẩm bổ sung giảm cân.

Chromium picolinate thường được bán như thảo dược. Người dùng cần tìm mua nguồn thảo dược có nguồn gốc rõ ràng, nơi bán đáng tin cậy để tránh nguy cơ bị nhiễm bẩn, nhiễm các kim loại độc hại. Cơ thể chúng ta chỉ cần một lượng crôm nhất định và thường hiếm khi xảy ra thiếu hụt khoáng chất này ở người.
Cơ chế hoạt động của Chromium picolinate
Cùng với insulin được sản xuất bởi tuyến tụy, Chromium picolinate sẽ hoạt động để chuyển hóa carbohydrate trong cơ thể.
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Hồng hoa.
Tên gọi khác: Cây Rum, Hồng lam hoa, Hồng hoa thái, Mạt trích hoa, Đỗ hồng hoa, Lạp hồng hoa, Dương hồng hoa.
Tên khoa học: Carthamus tinctorius L.
Chi Carthamus, họ Asteraceae, bộ Asterales.

Đặc điểm tự nhiên
Hồng hoa là một cây thân thảo, nhỏ, sống hàng năm, chiều cao trung bình từ 0,6 - 1m. Thân thẳng, trơn nhẵn, có các vạch nông, dọc, phân cành ở ngọn. Lá của Hồng hoa mọc so le nhau, cuống rất ngắn gần như không cuống, gốc lá tròn ôm thân. Phiến lá hình bầu dục hoặc hình trứng, dài từ 4 - 9cm, rộng từ 1 - 3cm, chóp nhọn sắc, mép lá có hình răng cưa không đều. Mặt trên nhẵn, có màu xanh sẫm, gân lá lồi cao, gân lá hình xương cá.
Cụm hoa thường mọc ở ngọn cây hoặc chót cành, bao chung với nhiều vòng lá bắc, vòng ngoài nhỏ hơn vòng trong, xếp xen kẽ nhau, có hình dạng cũng như kích thước khác nhau. Lá bắc có gai ở mép hoặc ở chóp. Hoa tương đối nhỏ, màu đỏ cam, đính trên đế hoa dẹt. Quả bế, có hình trứng, 4 vạch lồi chia quả thành nhiều thùy.
Cây phát triển tốt ở các vùng ấm áp, nhiều ánh sáng, đất tơi, xốp, ẩm.
Phân bố, thu hái, chế biến
Phân bố: Cây có nguồn gốc ở Ả Rập. Hiện nay được trồng nhiều ở các nước như Ấn Độ, Iran, Ai Cập, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên bang Nga, Hoa Kỳ và các nước ở bán đảo Đông Dương. Tại Việt Nam, Hồng hoa trồng ở nhiều nơi từ Hà Nội, Hà Giang và Đà Lạt.
Thu hái: Mùa hoa rộ vào đầu hè, tháng 5 - 7, mùa quả tháng 7 - 9. Sau khi thu hái, để nơi thoáng gió và trong bóng râm cho khô, giúp các dược liệu như hoa ít bị biến đổi màu và chất (phơi âm can).
Chế biến: Hoa hái về bỏ đài, nếu phơi khô dùng gọi là tán Hồng hoa, nếu gói lại thành từng bánh hoặc vắt thành miếng rồi phơi khô gọi là tiền bính.
Bảo quản: Nơi khô ráo, thoáng mát, đậy kín vì dược liệu dễ hút ẩm, hay vụn và đổi màu. Độ ẩm không quá 13%.

Bộ phận sử dụng
Hoa đã phơi khô của cây Hồng hoa. Dược liệu có màu đỏ cam hoặc hồng tím, cánh hoa dạng ống nhỏ dài, dài chừng 13mm, nhị đực màu vàng nhạt, ôm lại thành dạng ống, ở giữa có trụ đầu ló ra màu nâu nhạt. Chất nhẹ xốp, có mùi thơm đặc biệt. Tại Việt Nam, Hồng hoa ở Hà Tây gọi là Hoài hồng hoa rất tốt, cánh hoa dài, màu hồng tím.
Coco-Glucoside là gì?
Coco glucoside là một hợp chất hoạt động bề mặt có tác dụng giúp tạo bọt, làm sạch và nhũ hóa cho các sản phẩm dưỡng da và chăm sóc cá nhân. Các polyglucoside (APG), trong đó có Coco glucoside, được gọi là thế hệ mới của chất hoạt động bề mặt thân thiện với môi trường.

Coco glucoside thu được từ 100% nguồn gốc thực vật tái tạo. Đặc tính của Coco glucoside là hoàn toàn có thể phân hủy sinh học, không độc hại, không gây kích ứng da nhờ không chứa diethanolamides, lauryl sulfates, laureth sulfates, parabens và formaldehyde.
Chính vì thế, không ngạc nhiên khi chất hoạt động bề mặt tự nhiên này được sử dụng thay thế cho những chất hoạt động bề mặt được đánh giá là độc hại. Coco glucoside có thể bọt trong sản phẩm làm sạch mà không gây ra bất kỳ ảnh hưởng tiêu cực nào cho làn da của người sử dụng.
Coco glucoside được ưa chuộng bởi khả năng làm sạch đáng kinh ngạc, đồng thời có khả năng tương thích với bất kỳ các chất hoạt động bề mặt khác. Coco glucoside có thể so sánh với các chất hoạt động bề mặt khác của Alkyl Polyglucoside, chẳng hạn như Caprylyl / Capryl Glucoside (c8-10), Coco Glucoside (c8-16) và Lauryl Glucoside (c12-16).

Coco glucoside lành tính, an toàn khi sử dụng trong các sản phẩm mỹ phẩm và chăm sóc cá nhân. Thành phần này giúp duy trì cân bằng da mà không khiến da bị khô cũng như dễ làm dày với các polyme tự nhiên. Các nhà sản xuất thường bổ sung Coco glucoside vào trong công thức sản phẩm chăm sóc cho cả người lớn lẫn em bé.
Điều chế sản xuất Coco glucoside
Coco Glucoside là sản phẩm của quá trình glucose hóa các acid béo (thịt trái dừa) và glucose (đường) từ nguyên liệu tái tạo như dầu dừa, ngô và đường trái cây.
Dipotassium Glycyrrhizate là gì?
Dipotassium glycyrrhizate (DPG) là muối kali của acid glycyrrhizic (glycyrrhizin) – thành phần chính trong chiết xuất rễ cây cam thảo Glycyrrhiza glabra, họ đậu Fabaceae.
Trong mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân, các nhà sản xuất đã đưa vào Dipotassium glycyrrhizate nhằm mục đích nuôi dưỡng, kháng viêm và làm dịu da, đồng thời cũng là chất nhũ hóa và tạo gel cho sản phẩm. Dipotassium Glycyrrhizate có tác dụng dưỡng da, giúp làm dịu làn da bị kích ứng và hỗ trợ cải thiện kết cấu công thức.

Dipotassium Glycyrrhizate phù hợp với mọi loại da, trừ những người được xác định là dị ứng với nó. Tuy nhiên, nhược điểm của Dipotassium glycyrrhizate là không được hấp thụ tốt vào da.
Bên cạnh đó, từ hàng nghìn năm trước, chiết xuất rễ cây cam thảo đã được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc với công dụng nổi tiếng là làm dịu vùng mô bị viêm cũng như hỗ trợ loại bỏ đờm và chất nhầy ra khỏi đường hô hấp. Do đó, cam thảo có thể chữa được mọi thứ từ cảm lạnh thông thường cho đến bệnh gan.
Điều chế sản xuất Dipotassium Glycyrrhizate
Dipotassium Glycyrrhizinate là hoạt chất tinh chế từ rễ cam thảo, dạng bột, tan nước có khả năng kháng viêm tốt. Nhiều người sẽ lầm tưởng bột cam thảo nào cũng có tác dụng kháng viêm và giảm kích ứng tốt như nhau nhưng Dipotassium Glycyrrhizinate là thành phần chiết xuất đặc biệt của cam thảo, chỉ lấy những phần cần thiết trong cam thảo để phục vụ mục đích kháng viêm, kháng khuẩn, làm trắng và chống kích ứng da thôi, nên hiệu quả nó vượt trội so với bột cam thảo hay nước chiết xuất cam thảo bình thường.

Cơ chế hoạt động của Dipotassium Glycyrrhizate
Dipotassium Glycyrrhizinate là một chất chống viêm được sử dụng rộng rãi được phân lập từ rễ cây cam thảo. Nó được chuyển hóa thành Glycyrhetinic Acid, ức chế 11-beta-Hydroxysteroid Dehydrogenases và các enzym khác liên quan đến quá trình chuyển hóa Corticosteroids.
Dipotassium Glycyrrhizinate có khả năng làm sáng da đáng kể nhờ vào việc ức chế sắc tố, phân tán melanin, ức chế sinh tổng hợp melanin và ức chế enzym cyclooxygenase. Nói dễ hiểu thì Dipotassium Glycyrrhizinate ức chế không cho melanin di chuyển và xuất hiện trên bề mặt da.
Cinnamaldehyde là gì?
Cinnamaldehyde còn được gọi là Aldehyde cinnamic; 3-phenyl-2-propan; Anđehit cinnamyl; Phenylalacrolein; quế chi và trans-cinnamaldehyde. Đây là thành phần có trong vỏ của cây quế (Cinnamomum zeylanicum), xuất xứ từ Sri Lanka và Ấn Độ và được trồng ở Brazil, Jamaica và Mauritius. Cinnamaldehyde cũng được tìm thấy trong các thành viên khác của loài Cinnamomum bao gồm cả cây cassia và long não.

Có công thức hóa học là C6H5CH = CHCHO, Cinnamaldehyde là một hợp chất hữu cơ xuất hiện tự nhiên chủ yếu là đồng phân trans (E), mang lại hương vị và mùi cho quế.
Đây là một Phenylpropanoid được tổng hợp tự nhiên bằng con đường sinh tổng hợp Shikimat, tồn tại dưới dạng chất lỏng nhớt, màu vàng nhạt. Tinh dầu của vỏ quế chứa khoảng 90% là Cinnamaldehyde.
Công thức phân tử của Cinnamaldehyde được xác định vào năm 1834 bởi các nhà hóa học người Pháp Jean Baptiste André Dumas (1800–1884) và Eugène Melchior Péligot (1811–1890) và mặc dù công thức cấu trúc của nó chỉ được giải mã vào năm 1866 bởi nhà hóa học người Đức Emil Erlenmeyer (1825– Năm 1909).
Điều chế sản xuất
Có nhiều cách để điều chế Cinnamaldehyde. Thành phần này được điều chế thương mại bằng cách xử lý vỏ cây Cinnamomum zeylanicum với hơi nước. Anđehit hòa tan trong hơi nước, sau đó Cinnamaldehyde được chiết xuất khi hơi nước nguội đi và ngưng tụ lại để tạo thành nước lạnh, trong đó hợp chất ít hòa tan hơn nhiều.
Cinnamaldehyde cũng có thể được tổng hợp bằng cách cho phản ứng giữa Benzaldehyde (C6H5CHO) với Acetaldehyde (CH3CHO). Hai hợp chất ngưng tụ sau khi loại bỏ nước để tạo thành Cinnamaldhyde.
Năm 1834, Cinnamaldehyde được phân lập từ tinh dầu quế bởi Jean-Baptiste Dumas và Eugène-Melchior Péligot và được nhà hóa học người Ý Luigi Chiozza tổng hợp trong phòng thí nghiệm vào năm 1854.
Tinh dầu quế được chiết xuất từ vỏ cây quế với thành phần chính là Cinnamaldehyde. Có hai cách để chiết xuất được tinh dầu quế từ vỏ quế: Đó là công nghệ chưng cất hơi nước và chiết xuất qua dung môi. Nhưng để đạt thành phần Cinnamaldehyde lên đến 90% thì phải sử dụng công nghệ chưng cất hơi nước, còn với công nghệ chiết xuất qua dung môi chỉ đạt được 62 % đến 73 % tỉ lệ Cinnamaldehyde.
Cơ chế hoạt động
Nhiều dẫn xuất của Cinnamaldehyde có ích về mặt thương mại. Rượu Dihydrocinnamyl, xuất hiện tự nhiên nhưng được sản xuất bằng cách hydro hóa gấp đôi Cinnamaldehyd, được sử dụng để tạo ra mùi thơm của lục bình và hoa cà. Rượu Cinnamyl cũng tương tự và có mùi của hoa cà, có thể được sản xuất bắt đầu từ Cinnamaldehyd. Dihydrocinnamaldehyd được tạo ra bởi quá trình hydro hóa chọn lọc của tiểu đơn vị kiềm.
Fish collagen là gì?
Xét về nguồn gốc, hiện nay trên thị trường đang bày bán hai loại collagen: Collagen có nguồn gốc từ động vật trên cạn và một loại khác là collagen có nguồn gốc từ cá (fish collagen).
Fish collagen thuộc dạng collagen loại 1, là loại collagen quan trọng cho làn da đẹp và xương chắc khỏe. Đây là một loại protein được thủy phân từ da cá bằng enzyme đặc hiệu, có kích thước phân tử nhỏ hơn các loại collagen khác giúp cơ thể hấp thu dễ dàng hơn.

Fish collagen có kích thước phân tử chỉ bằng 1/60 so với collagen thông thường. Chính vì kích thước nhỏ như vậy nên khi vào đến dạ dày, fish collagen không cần nhiều thời gian để thủy phân hơn so với collagen thông thường. Từ đó nó cũng mang lại hiệu quả vượt trội hơn, khả năng hấp thu nhanh hơn gấp 5-7 lần so với collagen thông thường.
Ngoài ra, fish collagen hầu như không chứa hoặc chứa rất ít chất béo, thích hợp với tất cả mọi người kể cả người ăn kiêng.
Bên cạnh đó, do đặc tính phải chịu áp lực của dòng nước nên so với động vật trên cạn, da cá sẽ có độ đàn hồi chắc hơn nhiều. Vì thế, collagen được chiết xuất từ cá biển sâu có độ đàn hồi và độ dẻo dai rất cao.
Trong 10 gram fish collagen có chứa 45 calo, 9,4gram protein, 10 miligam natri, 0,07 miligam kali, 0,05 miligam canxi, 0,04 miligam sắt.
Điều chế sản xuất fish collagen
Fish collagen được chiết xuất thông qua một quá trình thủy phân phức tạp từ da và vảy cá, chúng hầu như không gặp phải các vấn đề về vệ sinh, không mang các vi khuẩn, virus truyền nhiễm từ động vật.

Cơ chế hoạt động của fish collagen
Chức năng chính của fish collagen là kết nối các mô trong cơ thể lại với nhau. Fish collagen là yếu tố cần thiết trong quá trình tạo ra các axit amin cần thiết cho sức khỏe của làn da, mái tóc, móng tay, khớp xương và các mô khác trên cơ thể người.
Fish collagen mang lại hiệu quả cao đối với làn da con người bởi khả năng hồi phục và tái tạo da, duy trì sự đàn hồi cho da, chống lão hóa.
Acid formic là gì?
Acid formic là dạng hợp chất acid hữu cơ đơn giản nhất trong nhóm Cacboxylic với công thức là HCOOH hoặc CH2O2. Thành phần này là một sản phẩm trung gian trong tổng hợp hóa học và cũng xuất hiện trong tự nhiên. Phần lớn hợp chất này có trong nọc độc và vòi đốt của nhiều loại côn trùng thuộc bộ cánh màng như con ong, con kiến, chủ yếu là các loài kiến.

Acid fomic còn có những tên gọi khác nhau như Acid metanoic, Acid hydrocacboxylic, Acid aminic, Andehit formic…
Đây là chất lỏng, không màu, dễ bốc khói, hòa tan trong nước và các chất dung môi hữu cơ phân cực và hòa tan một ít trong các Hydrocacbon.
Mặc dù là một Acid yếu nhưng so sánh trong dãy đồng đẳng Acid cacboxylic no, đơn chức, mạch hở thì Acid formic lại là axit mạnh nhất, mạnh hơn cả Acid cacbonic (H2CO3) bởi vì hiệu ứng dồn mật độ electron trong nhóm Cacboxyl (-COOH).
Trong Hydrocacbon và trong pha hơi, Acid formic bao gồm các chất Dimer liên kết Hydro chứ không phải là các phân tử riêng lẻ.
Trong ngành công nghiệp hóa chất, Acid formic từ lâu đã được coi là một hợp chất hóa học chỉ được sử dụng trong công nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, vào cuối những năm 1960, Acid formic đã trở thành sản phẩm phụ của quá trình sản xuất Acid acetic. Ngày nay Acid formic được sử dụng ngày càng nhiều như một chất bảo quản và kháng khuẩn trong thức ăn chăn nuôi.
Điều chế sản xuất
Ngay từ thế kỷ 15, một số nhà giả kim và nhà tự nhiên học đã biết rằng đồi kiến tỏa ra hơi acid. Người đầu tiên mô tả sự phân lập của chất này bằng cách chưng cất một số lượng lớn xác kiến là nhà tự nhiên học người Anh John Ray vào năm 1671. Kiến tiết ra Acid formic để tấn công và phòng thủ. Acid fomic lần đầu tiên được tổng hợp từ Acid hydrocyanic bởi nhà hóa học người Pháp Joseph Gay-Lussac. Năm 1855, một nhà hóa học người Pháp khác, Marcellin Berthelot, đã phát triển một phương pháp tổng hợp từ Carbon monoxide tương tự như phương pháp được sử dụng ngày nay.
Acid formic được tổng hợp trong phòng thí nghiệm bằng hai cách:
- Nung nóng Acid oxalic trong Glixerol khan và chiết bằng cách chưng hơi.
- Thủy phân Acid etyl isonitrile với chất xúc tác là dung dịch HCl.
Trong công nghiệp, Acid fomic có thể thu được bằng các cách:
Một số lượng đáng kể Acid fomic được sản xuất qua quá trình điều chế các chất khác, đặc biệt là Acid acetic. Đây là quá trình được gọi là chiết xuất sản phẩm phụ.
Metanol tác dụng với Cacbon monoxide dưới sự xúc tác của một bazơ mạnh sẽ sẽ tạo ra Metyl fomiat, một dẫn xuất của Acid fomic. Sau đó, tiến hành phản ứng thủy phân của Metyl fomiat tạo ra Acid fomic.
Để quá trình thủy phân trực tiếp Metyl fomiat, nhà sản xuất thực hiện quá trình gián tiếp khi cho Metyl fomiat phản ứng với Amoniac để tạo ra Formamide và sau đó thủy phân Formamide bằng Acid sulfuric để tạo ra Acid formic.
Cơ chế hoạt động
Acid formic thể hiện tính chất của nhóm Cacboxyl (-COOH) như sau:
Đặc trưng nổi bật của nhóm này chính là phản ứng Este hóa. Đây là phản ứng thuận nghịch được xúc tác nhờ Acid sunfuric đặc và nhiệt độ.
Tính chất cuối cùng đó là phản ứng tráng gương hay còn được gọi là phản ứng tráng bạc. Đây là loại phản ứng đặc trưng của Andehit. Đặc trưng của phản ứng tráng gương là tính khử. Khi nhóm chức Anđehit tác dụng với AgNO3 hoặc Ag2O trong môi trường NH3 tạo ra Ag.
Collagen là gì?
Collagen là một loại protein cứng, dạng sợi và không hòa tan. Chúng rất dồi dào khi chiếm tới 1/3 lượng protein của cơ thể. Hầu hết các phân tử của collagen được liên kết với nhau nhằm tạo thành các sợi mỏng và dài. Collagen được xem như một loại keo dán, giữ cho tất cả các mô tế bào dính chặt vào nhau.
Collagen mang lại rất nhiều lợi ích cho cơ thể con người, không chỉ giúp da khỏe mạnh và đàn hồi mà còn giúp hỗ trợ xương, dây chằng, cơ bắp, sụn cũng như các cơ quan nội tạng. Nhiều chế phẩm collagen còn được sử dụng trong điều trị đau khớp kết hợp với nhiều loại viêm khớp và phẫu thuật; điều trị đau lưng, đau cổ và đau sau chấn thương.

Có hai loại collagen:
-
Collagen nội sinh: Do cơ thể chúng ta tự tổng hợp, loại collagen này đảm nhận một số chức năng quan trọng. Vì thế, việc suy giảm collagen nội sinh sẽ có liên quan tới một số vấn đề về sức khỏe.
-
Collagen ngoại sinh: Đây là loại collagen tổng hợp từ một nguồn bên ngoài cơ thể.
Thành phần của collagen có ít nhất 16 loại và trong đó có 4 loại chính, bao gồm:
-
Loại I: Được cấu tạo từ các sợi dày đặc và chiếm 90% lượng collagen trong cơ thể. Thành phần này góp phần tạo nên cấu trúc của gân, sụn sợi, mô liên kết, răng, cấu trúc da và xương.
-
Loại II: Được tạo ra từ các sợi lỏng lẻo hơn và có trong sụn đàn hồi và đệm khớp.
-
Loại III: Loại này có tác dụng hỗ trợ cấu trúc của khối cơ bắp, động mạch,...
-
Loại IV: Thành phần này có trong da và nó có tác dụng hỗ trợ quá trình thanh lọc.
Điều chế sản xuất collagen
Các sản phẩm chức năng bổ sung collagen trên thị trường hiện nay phần lớn đều có nguồn gốc từ động vật, đặc biệt là lợn, bò và cá. Thông thường, các thực phẩm bổ sung chứa collagen loại I, II, III hoặc hỗn hợp cả ba loại. Collagen được cung cấp cho cơ thể chủ yếu dưới các dạng sau:
-
Collagen thủy phân: Còn được gọi là collagen hydrolyzate hoặc collagen peptide, được chia thành các đoạn protein nhỏ hơn gọi là axit amin;
-
Gelatin: Collagen trong gelatin chỉ bị phân hủy một phần thành các axit amin.
-
Nguyên sơ: Ở dạng thô - protein collagen vẫn còn nguyên.
Trong số ba dạng nêu trên, collagen thủy phân được cơ thể hấp thụ hiệu quả nhất. Nghĩa là, collagen dưới bất kỳ dạng nào được đưa vào cơ thể đều được thủy phân thành các axit amin thì cơ thể mới có thể hấp thụ dễ dàng để xây dựng collagen và các dạng protein cần thiết khác trong các mô cơ quan.
Collagen trên thực tế có thể tự tổng hợp thông qua sử dụng các axit amin từ các loại thực phẩm giàu protein. Tuy nhiên, để tăng cường lượng collagen và các lợi ích khác cho cơ thể thì bạn cần phải bổ sung thêm chúng.
Cơ chế hoạt động
Collagen bắt nguồn từ các nguyên bào sợi, là những tế bào da chuyên bào chuyên biệt nằm dưới lớp trung bì có chức năng sản xuất ra các sợi, mà chủ yếu là Collagen, elastin (protein giúp da có thể hồi phục lại).

Khi nhận được tín hiệu sản xuất collagen, nguyên bào sợi sẽ kết hợp những thành phần acid amin cần thiết lại dưới xúc tác của Vitamin C và một số chất khác tổng hợp ra những tiểu đơn vị collagen ngắn được gọi là procollagen.
Sau khi được chuyển ra khỏi tế bào sợi, những đơn vị này kết hợp với nhau để tạo thành những phân tử collagen hoàn chỉnh, tiếp tục xoắn lại trở thành các loại sợi, xây dựng kết cấu cho làn da, xương, mạch máu, cơ bắp và nhiều bộ phận khác.
Boron Nitride là gì?
Boron Nitride là hợp chất không quá xa lạ với phái đẹp bởi loại hợp chất tạo hiệu ứng chiếu sáng này là một thành phần được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp mỹ phẩm. Ở điều kiện thường, Boron Nitride ở dạng bột màu trắng giống như bột talc, có thể phản chiếu lấp lánh dưới đèn màu.
Boron Nitride ở dạng bột màu trắng giống như bột talc
Boron Nitride xuất hiện trong các loại sản phẩm như kem nền, phấn phủ, son môi,… nhờ khả năng cải thiện độ láng mịn cho làn da. Đặc điểm nổi trội của Boron Nitride là khả năng liên kết các phân tử nhỏ giúp tăng cường độ bám dính trên bề mặt của các loại mỹ phẩm, giữ cho son môi, phấn phủ, kem nền được giữ lâu hơn và mang lại cảm giác mịn màng, căng bóng cho làn da. Đối với son môi, Boron Nitride là thành phần “vàng” bởi chúng có thể giúp lớp son được phân tán đều trên bề mặt môi mà không tạo cảm giác nhờn, rít.
Boron Nitride - thành phần quen thuộc trong nhiều loại mỹ phẩm
Điều chế sản xuất Boron Nitride
Trong phòng thí nghiệm, Boron Nitride được điều chế từ phản ứng hóa học giữa Boron trioxit (B2O3) hoặc Axit boric (H3BO3) với Amoniac (NH3) hoặc Urê (CO (NH2) 2) trong môi trường Nitơ:
B2O3 + 2NH3 → 2BN + 3 H2O (T =900°C).
B(OH)3 + NH3 → BN + 3H2O (T =900°C).
B2O3 + CO(NH2)2 → 2BN + CO2 + 2H2O (T >1000°C).
B2O3 + 3CaB6 + 10N2 → 20BN + 3CaO (T >1500°C).
Cơ chế hoạt động của Boron Nitride
Boron Nitride tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, tương tự như dạng cấu trúc của Carbon. Hợp chất này hoạt động như một chất khoáng trong mỹ phẩm cải thiện khả năng bám dính của mỹ phẩm trên da.
Theobromine là gì?
Theobromine (đôi khi được gọi là xantheose) là chất tự nhiên có trong rất nhiều loài thực vật nhưng tập trung nhiều nhất trong hạt ca cao. Chất này có vị đắng, và như chúng ta thấy nó là thành phần chính có mặt trong các sản phẩm sô-cô-la cũng như một số loại thực phẩm khác.
Công thức hóa học của Theobromine.
Năm 1841, nhà hóa học người Nga Alexander Workresensky lần đầu tiên phát hiện theobromine trong hạt cà phê. Về sau, theobromine được tổng hợp lần đầu tiên từ xanthine bởi nhà hóa học người Đức Hermann Emil Fischer.
Cấu trúc hóa học của theobromine rất giống caffeine, đều được làm bằng carbon, hydro và oxy nguyên tử với 4 nguyên tử nitơ trong cấu trúc. Tuy nhiên, khác với caffeine, theobromine có ba nhóm methyl thay vì hai như caffeine. Ngoài ra, dù có tác động ảnh hưởng tương tự caffeine nhưng theobromine không ảnh hưởng đến cơ thể thông qua kích thích hệ thần kinh trung ương mà nó gây ra thư giãn cơ bắp của mô cơ trơn.
Do đặc tính có thể làm cho cơ thể cảm thấy no và ngăn chặn cảm giác thèm ăn nên theobromine là thành phần phổ biến trong các sản phẩm năng lượng tăng cường bổ sung dinh dưỡng và các sản phẩm giảm cân. Theobromine nói chung là an toàn với con người nhưng nếu dùng trong thời gian dài hoặc cấp tính với số lượng lớn, đặc biệt là ở người già có thể đưa đến trường hợp ngộ độc theobromine.
Theobromine được tìm thấy nhiều nhất trong sô-cô-la.
Cơ chế hoạt động của theobromine
Trong cơ thể, theobromine được chuyển hóa trực tiếp ở gan. Cụ thể, theobromine được chuyển hoá thành Xanthine, sau đó sẽ tiếp tục chuyển hóa thành Acid methyl uric, Enzyme bao gồm CYP1A2 và CYP2E1.
Lactobacillus paracasei là gì?
Lactobacillus paracasei (L. paracasei) là một vi khuẩn hình que, có chiều rộng 2 - 4μm, dài 0,8 - 1μm. Đây là một loài vi khuẩn gram dương, lên men đồng nhất, thường được sử dụng trong quá trình lên men các sản phẩm có nguồn gốc từ sữa và nuôi cấy vi sinh vật. Vi khuẩn không di động. Các tế bào vi khuẩn thường có một đầu tận hình vuông, có thể tồn tại ở dạng đơn độc hoặc kết thành chuỗi.
L. paracasei là một vi khuẩn hội sinh, là một phần của hệ vi khuẩn thường trú trong ống tiêu hóa và miệng của con người. Vi khuẩn này cũng được tìm thấy trong nước thải, các loại thức ăn lên men và các sản phẩm lên men từ sữa.
L. paracasei phát triển tối ưu ở nhiệt độ từ 10 - 37°C. Tại nhiệt độ 40°C, vi khuẩn không tiếp tục tăng trưởng. Vi khuẩn có thể tồn tại trong khoảng 40 giây ở nhiệt độ 72°C. Khả năng sống sót của L. paracasei cao hơn đáng kể khi được bảo quản trong tủ lạnh (nhiệt độ khoảng 4°C). Ngược lại, tỷ lệ sống sót dưới quá trình bảo quản không làm lạnh (ở nhiệt độ 22°C) là thấp nhất. Tuy nhiên, ở nhiệt độ -20°C và -70°C, khả năng sống sót của lợi khuẩn cao hơn so với ở nhiệt độ 7°C.
L. paracasei có mối liên hệ chặt chẽ về kiểu gen và kiểu hình với các thành viên khác trong nhóm vi khuẩn Lacticaseibacillus casei, bao gồm Lacticaseibacillus casei, Lacticaseibacillus zeae và Lacticaseibacillus rhamnosus. Tuy nhiên, những loài này dễ dàng được phân biệt với nhau dựa trên các trình tự đa locus, phát sinh chủng loại bộ gen lõi hoặc độ nhận dạng nucleotide trung bình.
Đặc tính lên men giúp cho loài vi khuẩn này thường được sử dụng làm chất xử lý thực phẩm sinh học và chất bổ sung cho chế độ dinh dưỡng và các rối loạn y khoa, đặc biệt là ở đường tiêu hóa.

Điều chế sản xuất Lactobacillus paracasei
Như đã đề cập ở trên, Lactobacillus paracasei là một chủng vi khuẩn thường trú trong ống tiêu hóa của người và nhiều loài động vật có vú khác. Ngoài ra, chủng lợi khuẩn này cũng có thể được phân lập từ các sản phẩm lên men có nguồn gốc từ sữa và các loại thực phẩm lên men khác.
Cơ chế hoạt động
Lợi khuẩn Lactobacillus paracasei có thể ảnh hưởng đến sức khỏe con người và động vật theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như ức chế sự sinh trưởng của các vi sinh vật gây bệnh đường ruột, điều hòa phản ứng miễn dịch, giảm nồng độ cholesterol huyết thanh hoặc thể hiện tác động chống oxy hóa,... Những tác động như vậy có thể là do sự hiện diện của chính lợi khuẩn hoặc do các chất chuyển hóa mà chúng tạo ra và trong một số trường hợp nhất định, những chất chuyển hóa này có thể được bài tiết ra môi trường (ví dụ như bacteriocin, exopolysaccharide - EPS và acid hữu cơ).
EPS ở các chủng L. paracasei khác nhau có nhiều cơ chế tác động khác nhau. Ở mức độ ống tiêu hóa, EPS do L. paracasei chủng BGSJ2-83 tiết ra làm giảm sự gắn kết của vi khuẩn Escherichia coli với các tế bào dòng Caco-2 và làm giảm sự tăng sinh tế bào lympho GALT trong ống nghiệm.
EPS của chủng LB8 điều hòa thành phần hệ vi sinh vật do hiệu ứng bifidogenic (hiệu ứng làm tăng hệ vi khuẩn thường trú đường ruột); trong khi đó, EPS từ chủng CIDCA 8339 và CIDCA 83124 làm giảm các vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae. EPS phân lập từ các chủng CIDCA 8339 và 83124 làm thay đổi nồng độ các acid béo chuỗi ngắn bằng cách tăng nồng độ butyrat và propionat.
Ngoài ra, EPS từ chủng MLS có tác dụng gây chết tế bào trên dòng tế bào ung thư biểu mô tuyến đại tràng HT-29 ở người. Việc uống EPS do chủng IJH-SONE sản xuất làm giảm chứng viêm da do picryl-chloride gây ra và việc bôi EPS tại chỗ làm giảm tình trạng viêm ở chuột. EPS được tạo ra bởi chủng DG gây tăng sản xuất các cytokine và chemokine gây viêm trong dòng tế bào đơn nhân THP-1 ở người. EPS phân lập từ chủng M7 có hoạt tính chống viêm và giảm nồng độ cholesterol.

Sản phẩm liên quan











